(Mười Một Mặt Quan Âm Đại Bi) Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh
(Tên Phạn: Heart Dhāraṇī of Avalokiteśvara-ekadaśamukha Sūtra) (Tên Anh: Eleven-Faced Avalokiteśvara Heart Dhāraṇī) (Tên Tây Tạng: Chen Re Zig, Chag Tong Shal Chu Chig)
Thần Chú Chân Ngôn Đà Ra Ni bằng chữ Tây Tạng và tiếng Phạn:
ན༌མོ༌རཏྣ༌ཏྲ༌ཡཱ༌ཡ། ན༌མཿ༌ཨཱཪྱ༌ཛྙཱ༌ན༌ས༌ག༌ར། བཻ༌རོ༌ཙ༌ན༌བྻཱུ༌ཧ༌རཱ༌ཛཱ༌ཡ། ཏ༌ཐཱ༌ག༌ཏཱ༌ཡ། ཨརྷ༌ཏེ༌སམྱཀ༌སམྦུ༌དྡྷཱ༌ཡ། ན༌མཿ༌སརྦ༌ཏ༌ཐཱ༌ག༌ཏ༌བྷྱཿ། ཨརྷཏེབྷྱཿ༌སམྱཀ༌སམྦུ༌དྡྷེ༌བྷྱཿ༌ན། མཿ༌ཨཱརྱ༌ཨ༌ཝ༌ལོ༌ཀི༌ཏེ༌ཤྭ༌རཱ༌ཡ། བོ༌དྷིི༌སཏྟྭ༌ཡ། མཧཱ༌ས༌ཏྟྭ༌ཡ། མཧཱ༌ཀ༌རུ༌ཎི༌ཀཱ༌ཡ། ཏདྱ༌ཐཱ། ༀ༌དྷ༌ར༌དྷ༌ར། དྷི༌རི༌དྷི༌རི། དྷུ༌རུ༌དྷུ༌རུ། ཨི༌ཊྚི༌ཝ༌ཊྚི། ཙ༌ལེ༌ཙ༌ལེ། པྲ༌ཙ༌ལེ༌པྲ༌ཙ༌ལེ། ཀུ༌སུ༌མེ༌ཀུ༌སུ༌མེ༌ཝ༌རེ། ཨི༌ལི༌མི༌ལི། ཙི༌ཏི༌ཛཱ༌ལ༌ཨ༌པ༌ན༌ཡེ༌སྭཱཧཱ ༎
Namo Ratna Trayāya Namaḥ Ārya Jñāna Sāgara Vairocana Vyūha Rājāya Tathāgatāya Arhate Samyak Sambuddhaya Namah Sarva Tathagatebyah Arhatebhyaḥ Samyaksaṃbuddhe Byaḥ Namaḥ Arya Avalokite Śvarāya Boddhisattvāya Mahāsattvāya Mahākāruṇikāya Tadyathā Oṃ Dhara Dhara Dhiri Dhiri Dhuru Dhuru Ite Vatte Cale Cale Pra Cale Pra Cale Kusume Kusume Vare Ili Mili Citijvala Māpanāye Svāhā
Phiên Âm Việt:
Nam Mô, Rat Nà, Trà Day Dà, Nam Ma, Oa Dà, Cha Nà, Sà Goa Rà, Vai Rô Cha Nà, Viu Dà, Rà Tray Dà, Thát Tà Gat Tay Dà, Oa Hát Tề, Săm Dắt, Săm Bu Đà Dà, Nam Ma, Soa Và, Thát Thà Gát Tề Bề, Oa Hát Tề Bề, Sâm Dắt Sâm But Đề, Bề, Nam Ma, Oa Dà, A Và A Lồ Ky Tề, Soa Rai Dà, Bốt Đì Sat Vay Dà, Ma Ha Sat Vày Dà, Ma Ha Kha Run Ni Khai Da, Thát Dà Tha, Ốm Đa Rà, Đa Rà, Đi Ri, Đi Ri, Đu Ru, Đu Ru, Y Thê, Vây Thề, Tra Lê, Tra Lê, Prà, Troa Lề, Prà, Troa Lề, Khu Sung Mề, Khu Sung Mà, Voá Rê, Y Li, Mi Li, Chit Đi Troa Là, Má Pa Nai Dề, Sô Hà
Hoàn Thành Bản Dịch Việt:
Quy mệnh Tam Bảo, Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác, Kính lễ tất cả Như Lai Đẳng, Ứng Cúng Đẳng, Chính Đẳng Chính Giác Đẳng, Kính lễ Bậc có Tâm Đại Bi là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát Như vậy, cảnh giác, gia trì cho ta và người, người gia trì không kể nam nữ, Lóe sáng, gom giữ đề mục, năng lực tự nhiên: hư không, gió, mặt trời, mặt trăng … như vậy, lay động, lay động, lay động khắp, lay động khắp, sức mạnh của bông hoa bên trong bông hoa, thâu nhiếp ánh sáng, xuất tức quán: quán sát hơi thở ra vào, quyết định thành tựu!
Mỗi Hàng Bản Dịch Việt:
Namo Ratna Trayāya (Quy mệnh Tam Bảo)
Namaḥ Ārya Jñāna Sāgara Vairocana Vyūha Rājāya Tathāgatāya Arhate Samyak Sambuddhaya (Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác)
Namah Sarva Tathagatebyah Arhatebhyaḥ Samyaksaṃbuddhe Byaḥ (Kính lễ tất cả Như Lai Đẳng, Ứng Cúng Đẳng, Chính Đẳng Chính Giác Đẳng)
Namaḥ Arya Avalokite Śvarāya Boddhisattvāya Mahāsattvāya Mahākāruṇikāya (Kính lễ Bậc có Tâm Đại Bi là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát)
Tadyathā (Như vậy), Oṃ (cảnh giác), Dhara Dhara (gia trì cho ta và người), Dhiri Dhiri (người gia trì không kể nam nữ), Dhuru Dhuru (Lóe sáng, gom giữ đề mục), Ite Vatte (năng lực tự nhiên: hư không, gió, mặt trời, mặt trăng … như vậy), Cale Cale (lay động, lay động), Pra Cale Pra Cale (lay động khắp, lay động khắp), Kusume Kusume Vare (sức mạnh của bông hoa bên trong bông hoa), Ili Mili Citijvala (thâu nhiếp ánh sáng), māpanāye (xuất tức quán: quán sát hơi thở ra vào), Svāhā (quyết định thành tựu)!
Dịch Âm Việt:
Kính lễ Tam Bảo.
Kính lễ Thánh Trí Hải Biến Chiếu Trang Nghiêm Vương Như Lai.
Kính lễ nhứt thiết Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Kính lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ-tát Ma-ha-tát Đại bi giả.
Đát Điệt Tha: Ám, Đạt Ra Đạt Ra, Địa Lý Địa Lý, Đổ Rô Đổ Rô, Nhứt Lai Phạt Lai, Chiếc Lệ Chiếc Lệ, Bát ra Chiếc Lệ Bát ra Chiếc Lệ Câu tố mế Câu tô ma phạt lệ Nhứt Lí Nhí Lí, Chỉ Lí Chỉ Trí, Thạ La Ma Ba Nại Gia, Thuật Đà Tát Đỏa, Mạt ha Ca Lô Ní Ca, Tóa Ha.
Thập Nhất Diện Thần Chú Tâm Kinh
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Bạc Già Phạm (Bhagavam) ngự tại Đạo Trường Trúc Ý ở Thất La Phiệt cùng với Chúng Đại Bật Sô gồm 2500 người và vô lượng số Bồ Tát Ma Ha Tát do Từ Thị Bồ Tát Maitra Bodhisatva) làm Thượng Thủ đến dự. Lại có vô lượng Bật Sô (Bhiksu), Bật Sô Ni (Bhiksunì), Ô Ba Sách Ca (Upàsaka), Ô Ba Tư Ca (Upàsìka) với các hàng Trời (Deva), Rồng (Nàga), Dược Xoa (Yaksa), Kiền Đạt Phộc (Gandharva), A Tố Lạc (Asura), Yết Lộ Trà (Garuda), Khẩn Nại Lạc (Kinnara), Mạc Hô Lạc Già (Mahoraga), Cưu Bạn Trà (Kumbhandha), Tỳ Xá Già (Pi’sàca), người (Manusya), Phi Nhân (Amanusya)… đại chúng vây quanh cung kính tôn trọng tán thán để rồi nói Pháp.
Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát (Avalokite’svaràya Bodhisatvàya Mahàsatvàya) cùng với vô lượng câu chi na dữu đa trăm ngàn Trì Chú Tiên Nhân (Vidyadhàra Rsì) trước sau vây quanh đi đến nơi Đức Phật ngự. Đến rồi đỉnh lễ 2 chân của Đức Thế Tôn, nhiễu quanh bên phải 3 vòng rồi lui về ngồi một bên, bạch Phật rằng:” Thế Tôn ! Con có Thần Chú Tâm, tên là Thập Nhất Diện , có đủ uy lực lớn mà 11 câu chi chư Phật đã nói. Nay con muốn vì lợi ích an vui cho tất cả Hữu Tình, trừ tất cả bệnh, diệt tất cả ác, chận đứng tất cả sự chẳng tốt lành, đẩy lui tất cả mộng tưởng ác, che chận tất cả sự chết không đúng thời, muốn các loài có tâm ác được điều tĩnh, kẽ có nỗi lo khổ được an vui, kẻ có oán đối được hòa giải, Ma Quỷ chướng ngại đều tiêu diệt, Tâm có nguyện cầu đều xứng toại.
Thế Tôn! Con chẳng thấy Thế Gian hoặc Trời (Deva) hoặc Ma (Màrà) hoặc Phạm (Bràhma) hoặc Sa Môn (‘Sramana) hoặc hàng Bà La Môn (Brahman) dùng Thần Chú này phòng hộ thân ấy , thọ trì, đọc tụng, viết chép, lưu bố mà bị tất cả tai hoạnh, ma chướng, dao gậy, thuốc độc, yểm đảo, chú thuật… gây hại được.Con cũng chẳng thấy dùng Thần Chú này tùy nơi cư trú , hoặc xa hoặc gần, kết tác Giới xong mà có thể vượt qua nhiễu hại lẫn nhau, chỉ trừ Nghiệp ác quyết định đến lúc chín mùi. Thế Tôn ! Do đấy chứng biết việc đó là như thế. Chỉ nên tin nhận, chẳng nên phân biệt. Như điều này ắt tất cả tai hoạnh thảy đều xa lìa chẳng thể đến gần. Thần Chú Tâm này là nơi tất cả chư Phật cùng xưng tán, cùng tùy hỷ, tất cả Như Lai nhớ giữ thủ hộ.
Thế Tôn! Con nhớ về thời quá khứ cách nay căng già sa đẳng kiếp có Đức Phật ra đời, tên là Bách Liên Hoa Nhãn Vô Chướng Ngại Đỉnh Xí Thịnh Công Đức Quang Vương Như Lai . Vào lúc ấy, con là Đại Tiên Nhân (Mahà Rsì) theo Đức Thế Tôn ấy nhận được Chú này.Được Chú này thời nhìn thấy 10 phương chư Phật, lập tức chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn. Nên biết Chú này có đủ Đại Uy Lực.
Vì Thế nếu có kẻ trai lành.người nữ thiện tĩnh tín muốn thọ trì , đọc tụng Thần Chú này cần phải cung kính, chí tâm , cột buộc tâm, mỗi lúc sáng sớm như Pháp thanh tĩnh niệm tụng Chú này 108 biến. Nếu có thể như thế thì đời này được 10 loại thắng lợi. Thế nào là mười ?
1) Thân thường không có bệnh
2) Luôn được 10 phương chư Phật nhiếp thọ
3) Tài bảo, quần áo, thức ăn thọ dùng không cùng tận
4) Hay điều phục oán địch mà không có sợ hãi
5) Khiến các bậc tôn quý cung kính mở lời trước
6) Cổ Độc, Quỷ Mỵ chẳng thể gây thương hại được
7) Tất cả đao gậy chẳng thể gây hại được
8) Nước chẳng thể cuốn chìm
9) Lửa chẳng thể thiêu đốt
10) Cả đời chẳng bị chết đột ngột.
- Lại được 4 loại công đức thắng lợi
1) Lúc mệnh chung được thấy chư Phật
2) Khi chết chẳng bị đọa vào các nẻo ác
3) Chẳng bị chết do hiểm ách
4) Được sinh về Thế Giới Cực Lạc
Thế Tôn! Con nhớ về thời quá khứ cách nay 10 căng già sa đẳng kiếp, lại vượt xa hơn nữa có Đức Phật ra đời, tên là Mỹ Am Hương Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác. Khi ấy thân con là vị Đại Cư Sĩ ơ nơi Đức Phật ấy nhận được Chú này. Được Chú này thời liền ở sinh tử vượt qua 4 vạn kiếp tụng trì Chú này ,lại được Chư Phật Đại Bi Trí Tạng nhất thiết Bồ Tát Giải Thoát Pháp Môn Do uy lực này hay cứu mọi loại khổ nạn của tất cả lao ngục, cột trói, gông cùm, xiềng xích, tội bị tử hình, lửa, nước, gió, giặc cướp, Cổ Độc, Yểm Đảo, người, phi nhân
Do đây con đối với tất cả Hữu Tình hay làm nơi Quy Y, cứu hộ, an ủi, cồn bãi, nhà cửa… Dùng uy lực của Chú này nhiếp lấy Nghiệp Ac của tất cả kiếp, với hàng La Sát trước tiên khiến phát Tâm Từ , Tâm thương xót sau đó an lập nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề (Anuttara samyaksambuddha – Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác)
Thế Tôn! Thần Chú này của con có uy lực lớn. Nếu tụng một biến liền hay trừ diệt 4 tội căn bản và 5 tội Vô Gián khiến không còn dư sót, huống chi như thuyết mà tu hành.
Nếu đã từng ở nơi trăm ngàn câu chi na dũu đa Phật gieo trồng các căn lành thì đến ngày nay được nghe Chú này, huống chi có thể thọ trì như thuyết tu hành.
Nếu có thể ngày đêm đọc tụng, thọ trì Thần Chú này thì con sẽ khiến cho hết thảy nguyện cầu của người ấy đều được như ý.
Nếu có thể ở mỗi nửa tháng hoặc ngày 14 hoặc ngày 15 thọ trì Trai Giới như Pháp thanh tĩnh , buộc Tâm nơi con, tụng Thần Chú này liền ở sinh tử vượt 4 vạn kiếp.
Thế Tôn! Con do Chú này mà có danh hiệu tôn quý, khó có thể được nghe. Nếu có kẻ xưng niệm Danh Hiệu của trăm ngàn câu chi na dữu đa chư Phật , lại có kẻ tạm thời đối với Danh Hiệu của con , chí tâm xưng niệm thì công đức của 2 người ấy ngang bằng nhau. Chư Hữu xưng niệm danh hiệu của con thì tất cả đều được Địa Bất Thoái Chuyển, lìa tất cả bệnh, thoát tất cả chướng với tất cả sự sợ hãi và hay diệt trừ điều ác của Thân Ngữ Ý, huống chi có thể đối với Thần Chú mà con đã nói thọ trì, đọc tụng, như Pháp tu hành. Nên biết người đó đối với Vô Thượng Bồ Đề ắt được lãnh thọ như ở trong lòng bàn tay”
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi Quán Tự Tại Bồ Tát rằng:” Lành thay! Lành thay Thiện Nam Tử! Ông hay đối với tất cả Hữu Tình phát khởi ý Đại Bi như vậy mà muốn mở bày Đại Thần Chú này.
Này Thiện Nam Tử! Ông do phương tiện này hay cứu thoát tất cả Hữu Tình, hết thảy bệnh khổ, chướng nạn, sự sợ hãi, điều ác của Thân Ngữ Ý cho đến an lập tất cả Hữu Tình nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
ThiệnNamTử ! Ta cũng tùy hỷ nhận Thần Chú của ông. Ông hãy nói đi”...
... Đọc tiếp tục từ nguồn của bài Kinh